Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

Chân Tiểu Nhân or Nguỵ Quân Tử

...Học Phật pháp cần phải nỗ lực tích cực,
                                     chân chánh tu tập,
                                     không nên học "khẩu đầu thiền" (thiền ở cái miệng).

Chỉ học và biết giảng kinh, thuyết pháp, nói lời khéo léo, biện bác lanh lợi hoặc môi mép rằng: "không chân cũng không giả là trung đạo liễu nghĩa".

Bởi vì, người học khẩu đầu thiền thì.. một chút công phu chân chánh cũng không có, hoặc lúc nào cũng muốn "mình hơn người", tật đố ganh tỵ luôn gây chướng ngại cho người khác, cũng như không ngừng tạo ra nghiệp ác thì người ấy không đạt được gì cả.

"Quân tử hữu thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác; tiểu nhân phản thị."

...E rằng có sự pha trộn nào giữa "Chân Tiểu Nhân" và "Ngụy Quân Tử" chăng? Lậu hoặc này quá vi tế để thấy biết! Ta cần thấy biết để đoạn tận, bởi vì một khi lậu hoặc đã đoạn tận, tuệ giác mới khai mở và không còn tạo nghiệp.


Bổn tâm

Hôm qua có Vị Tổ hỏi Quý vị:

Lúc bàn tay hướng hạ, ngón tay sẽ ngược;  lúc bàn tay hướng thượng, ngón tay sẽ thuận?

hay là:

Lúc bàn tay hướng hạ, ngón tay sẽ thuận;  lúc bàn tay hướng thượng, ngón tay sẽ ngược?



“ A tu la nên biết:
Xưa vậy nay cũng vậy
Ngồi im bị người chê
Nói nhiều bị người chê
Nói vừa phải bị chê
Làm người không bị chê
Thật khó tìm ở đời. ” 

Pháp Cú 227

...Để trả lời 2 câu trên, ta cần nên ứng dụng tinh thần "tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên" vậy.
Ai đã khai ngộ, tức đã nhận thức được bổn lai diện mục, " đã biết mũi của mình ngang hay dọc; cũng đã biết cánh tay đưa lên thì ngón tay thuận hay ngược (and vice-versa) "

Có Vị Tổ từng nói: " Nếu không nhận thức được bổn tâm mình, thời học pháp vô ích! "

Túm lợi, tôi khởi suy thế này: "Thế nào là bổn lai diện mục của ông/bà ?"
                                             (có nghĩa là "Mặt mũi xưa nay của ông/bà là gì ?")

Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

Phía sau có một số "thuận duyên" đang đuổi theo ta

...Khi Đức Phật đến và biết rằng anh ta muốn gặp Ngài. Angulimala muốn giết Phật bởi vì anh ta đã sát hại 999 người. Anh ta đã thề rằng sẽ giết đến người thứ một ngàn, vì vậy anh ta rất khoái trá khi nhìn thấy Đức Phật và cố gắng bắt Ngài. 

Đôi khi Đức Phật cũng vận dụng một chút phép mầu. Biết rằng khó bề chinh phục con người này bằng lời thuyết giáo, Đức Phật thong thả bước trên đường và cho anh ta đuổi theo. Dù chạy gần bốn dặm, anh ta vẫn không thể nào đến gần được Phật. Anh ta yêu cầu Phật dừng lại và Đức Phật biết là đã đến lúc ngài nói với anh ta

  • Đức Phật nói: “Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chỉ có ngươi mới còn đang chạy”. 
  • Angulimala nói:Làm sao ông nói ông đã dừng lại, tôi thấy ông vẫn đang đi kia mà”. 
  • Đức Phật đáp:Ta dừng lại có nghĩa là ta đã dừng nghiệp giết hại và không làm đau khổ chúng sanh. Còn ngươi vẫn còn chạy nghĩa là ngươi vẫn còn hành động tàn ác. Nếu ngươi dừng lại thì   ngươi có thể đuổi kịp ta”. 
  • Thế là Angulimala nói: “Tôi không thể nào hiểu được những gì ông nói”.  
  • Phật trả lời: “Ta đã ngừng sự giết hại còn ngươi vẫn cứ tiếp tục như thế, nghĩa là vẫn còn đang chạy.      Ngươi đang chạy trong vòng luân hồi
Thế là Angulimala chợt hiểu ra mình đã sai nên quyết định qui y Phật và trở thành tu sĩ bắt đầu thiền định. Sau đó anh ta đạt quả A La Hán và đắc Niết Bàn Cực Lạc. Nghiệp xấu không còn cơ hội bám theo anh ta nữa. Anh ta đã trau dồi thiện nghiệp và nghiệp xấu không còn cơ hội ảnh hưởng đến anh ta nữa.

When the Buddha came to know that he went to see him. Angulimala wanted to kill the Buddha because he had completed 999 murders. His vow was to kill the thousandth, so he was very happy when he saw the Buddha and tried to catch him. Occasionally the Buddha performed a little miracle. Knowing it was difficult to control this man by preaching, the Buddha walked in a normal way and allowed him to run. Although he ran nearly 4 miles, he could not come near to the Buddha. Then he asked the Buddha to stop and the Buddha knew it was time for him to talk to him. 
  • The Buddha said: I have already stopped, you’re the one who run.” 
  • Angulimala said:How can you say you have stopped, I saw you walking.” 
  • The Buddha replied: I have stopped means I have stopped killing or destroying other living beings. You are the one who is running means you are still committing evil. If you stop running then you can catch me.” 
  • Then Angulimala said: “I cannot understand what you said.” 
  •  Then the Buddha said: I have stopped killing and you’re doing just that, that is the meaning of running.     You are running in samsara.” 
Then Angulimala came to know that he was wrong and decided to follow the Buddha and he became a monk and started to meditate. Later he attained arahantahood and gained nirvanic bliss. Bad karma had no chance to come to catch him. He went on developing good karma and the bad karma had no chance to affect him.

...đọc qua đoạn khai thị trên, tôi bỗng dâng một niềm hạnh phúc ngộ kỳ. Tự mỉm cười với chính tôi và thầm nhủ:  "Phía sau có một số "thuận duyên" đang đuổi theo ta...kỳ thực ban đầu họ luôn ghét ta, luôn dõi theo ta, giám sát ta trên từng cây số luôn muốn hãm hại ta trong khi ta chẳng làm điều gì pơng hại đến họ cả. Nghịch duyên cũng chính là Thuận dun vậy."

NAM ĐẠI BI HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT.

KÍNH LẠY PHẬT ỜI PƠNG TỪ BI GIA HỘ CHO CON (^.^)


Chúng ta hãy suy ngẫm những lời dạy vàng ngọc sau đây của chư Phật, chư Tổ:

Lấy oán báo oán
Oán nghiệp chập chùng
Lấy ơn báo oán
Oán nghiệp tiêu tan
Thắng lợi sinh thù oán
Thất bại chịu khổ đau
Không hơn thua, thắng bại
Sống an nhiên, tự tại
Người hơn thì thêm oán
Kẻ thua ngủ chẳng yên
Hơn thua đều xả bỏ
Giấc ngủ được bình yên
Hận thù diệt hận thù
Đời đời không thể có
Từ bi xóa hận thù
Định luật đúng thiên thu
Mô Phật! Con sẽ tu...

Đọc hay trì tụng kinh kệ?

Kệ Khai Kinh

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp 
Bách niên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiếu văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.

Phật pháp rộng sâu rất nhiệm màu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe  thấy chuyên trì tụng
Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.


HT. Thích Trí Tịnh nói về ý nghĩa & giá trị của việc tụng kinh

Ngoài việc trở thành một dịch giả vĩ đại của kinh điển Đại thừa, đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh đến nay đã có trên 70 năm tụng kinh. Lời khai thị của Hòa thượng dưới đây có ý nghĩa rất lớn cho người đọc tụng và thọ trì kinh để mở mang tâm trí và thâm nhập kinh tạng.

Bạch Sư Ông, tại Việt Nam có người dùng từ đọc kinh, có người dùng từ tụng kinh. Ý nghĩa của hai thuật ngữ này thế nào?

Các huynh đệ nên hiểu “tụng” là học thuộc lòng, những khi lên chánh điện mặc áo tràng đắp y, thắp nhang lễ Phật, có chuông có mõ, mở kinh ra rồi cho đó là tụng. Kỳ thật đó không phải là tụng kinh mà chỉ là đọc kinh. Tụng kinh là phải đọc thuộc lòng kinh. Nên nhớ kỹ điều đó! Khi đã thuộc lòng rồi, mình tụng mới có lợi ích lớn. Không những lúc mặc áo tràng đắp y lên điện Phật, mà trong những khi đi đứng nằm ngồi, thỉnh thoảng những lời kinh do mình thuộc nó sẽ khởi lên trong tâm.

Như người đời thuộc những bài ca mà họ ưa thích, thì những khi đi đứng nằm ngồi họ thường khe khẽ cất lên vài câu, hay trong tâm cũng thường nghĩ nhớ đến những bài ca bài hát đó. Cũng vậy, nếu mình thường niệm Phật thì nó khởi lên câu niệm Phật. Còn nếu mình thuộc lòng kinh thì những lời kinh thường hay khởi lên thì ngay lúc đó là mình đã tụng kinh rồi.

Sư Ông thường dạy rằng lời Phật thật quý báu. Vậy, người tụng kinh do tôn kính lời Phật sẽ đạt được lợi ích gì?

Mỗi khi tụng kinh, mình nhớ lại những lời dạy của Phật thì đó là mình niệm Pháp. Khoảng thời gian mình tụng kinh thì những niệm phiền não, những niệm xấu, niệm ác bị đè phục nên không khởi lên; do bị đè phục nên nó yếu đi, nó đã yếu thì lúc có khởi lên cũng khởi yếu. Đây là nói phục, còn đoạn là khác nữa. Nhưng nhờ cái phục nên nó yếu. Vì yếu nên tội chướng nghiệp chướng cũng yếu dần. Khi bên tội chướng, nghiệp chướng yếu thì thiện căn công đức sẽ khởi dậy. Hai cái đó như hai cái giá cân. Nếu bên này nặng thì bên kia bị nhẹ. Nếu bên này nhẹ thì bên kia nặng, lẽ đương nhiên là như vậy. Nói cách khác, ngoài phước báu do tôn kính Phật pháp, người tụng kinh có thể làm tiêu trừ nghiệp chướng.


Trong đời tu của Sư Ông, hẳn nhờ tụng kinh Sư ông ngộ ra nhiều điều. Xin Sư Ông đơn cử một ví dụ về cái ngộ nhờ tụng kinh.

Nay tôi sẽ nói rõ điều này cho các huynhđệ nghe, vì thông thường ít ai nghĩ đến. Nhân khi tụng kinh Kim Cang tôi đã khám phá ra một điều mà từ lâu suy nghĩ không biết vì sao trong kinh nói một vị Tu đà hoàn dứt trừ được kiến phiền não, còn tư phiền não thì chậm nhất là trong bảy đời dứt hết thành A la hán. Vị Tu đà hoàn không có đời thứ tám, chỉ đến đời thứ bảy là cuối cùng. Trong kinh nói rõ ràng, chứ không nói việc tu hành gì cả.

Tôi thường suy nghĩ việc đó hoài, nghiệm mãi không ra. Cho đến khi tụng kinh Kim Cang đến đoạn Phật hỏi ngài Tu Bồ Đề: Vị Tu đà hoàn có tự nói mình là Tu đà hoàn không? Ngài Tu Bồ Đề đáp là không. Bởi vì Tu đà hoàn gọi là nhập lưu. Nói nhập mà không chỗ nhập. Không nhập vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, do đó gọi là Tu đà hoàn. Ngay đó tôi hoát nhiên phá giải được cái điều mà tốn không biết bao nhiêu thời gian suy nghĩ vềlý do tại sao mà vị Tu đà hoàn không có đời thứ tám, chỉ nội trong bảy đời dứt tư hoặc chứng A la hán.

Nghĩa là vị Tu đà hoàn sau khi kiến hoặcđã dứt rồi thì tâm của vị ấy không còn bị chi phối bởi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Do không bị chi phối nên tư hoặc không có dịp phát khởi. Vì không phát khởi nên lần lần nó mòn yếu đi. Do mòn yếu nên nó dứt lần lần. Dứt một phần thì thành Tư đà hàm. Dứt thêm phần nữa thì thành A na hàm. Dứt thêm nữa cho đến dứt sạch hết thì thành A la hán. Nó dứt từng phần, dứt lần lần.

Cũng thế, hằng ngày mình có niệm Phật tụng kinh, thì lúc đó phiền não, nghiệp chướng nó không khởi. Nó không khởi trong khoảng thời gian mình có niệm Phật, tụng kinh, chứ không phải nó luôn luôn không khởi. Nhưng có như vậy thì nó yếu lần đi. Nó yếu lầnđi thì cái lành cái tốt phát triển lên thì gọi là mình có tu. Phiền não nghiệp chướng bị dằn bị phục thì thiện căn công đức phát sanh, cho đến lúc nào đó sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không còn chi phối nội tâm mình là thành công. Mà cũng không biết đến lúc nào, bởi vì chủng tử phàm phu trong vòng sanh tử luân hồi của mình nó nặng nề lắm, phiền não nghiệp chướng nặng nề lắm. Nhưng nếu hằng ngày mình có phương pháp để dằn để phục, thì nó sẽ yếu lần lần. Bằng không nếu bị sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp chi phối thì mỗi ngày chẳng những nó không yếu mà lại mạnh thêm, thì mình càng chui đầu sâu vào vòng sanh tử luân hồi. Lẽ tất nhiên hai ngả rõ ràng như vậy.

Trên đây chỉ là một ví dụ. Nếu các huynh đệ mỗi ngày đều tụng kinh thì sẽ tỏ rõ nhiều điều bổ ích. Do đó, tôi khuyên các huynh đệ siêng năng tụng kinh để thâm nhập trí Phật.

Tại Việt Nam, khi tụng kinh các chùa còn niệm Phật. Xin Sư Ông khai thị về phương pháp niệm Phật trong tụng kinh?

Tôi nói rõ để huynh đệ biết rằng tụng kinh và niệm Phật đúng cách là thật tu. Khi niệm Phật thì không duyên việc khác. Không duyên theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Chỉ duyên nơi âm thanh câu niệm Phật. Huân tập mỗi ngày một mạnh lên nơi hạnh niệm Phật thì những niệm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp khác, mỗi ngày một bớt đi, vì trong khoảng thời gian đó nó không khởi được thì nó phải giảm bớt. Mà nếu thời gian niệm Phật càng ngày càng nhiều thì tất nhiên mỗi ngày mình lần lần tiến lên.

Cũng như người tu thiền giữ tâm đừng cho khởi vọng, tất nhiên là làm sao cho nội tâm đừng bị chi phối bởi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nó không chi phối thì phiền não nghiệp chướng không do đâu mà sanh khởi. Phiền não nghiệp chướng không khởi được thì lần lần nhẹ đi, cho đến lúc nào đó cũng như cái màn che bị rách, bị tan thì ánh sáng từ trong nội tâm phát ra, gọi là tỏ ngộ. Hai đường tu dù Thiền dù Tịnh giống nhau, chứ không chi khác.

Vậy theo Sư ông tu thật chất là không để tâm dính vào sáu trần cảnh?

Đúng vậy! Hằng ngày mình bị sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp chi phối là không có tu. Lúc nào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nó không chi phối nội tâm của mình được, thì chính lúc đó là lúc mình tu. Nên nhớ kỹ như vậy! Chứ không phải đợi đến lúc mặc áo, đắp y lên chánh điện. Mặc áo đắp y lên chánh điện, lễ Phật mà bị cảnh ngoài sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nó chi phối thì chưa phải là có tu.

Pháp của Phật dạy nói cho rõ là tu tâm. Còn nơi thân và khẩu chỉ trợ giúp cho nội tâm mà thôi. Nói vậy không phải phế bỏ những thời khóa tu tập, ban đầu sức tu còn yếu thì phải nương vào thời khóa, quan trọng ở chỗ là ngoài thời khóa cũng phải tu. Do đó niệm Phật không luận là lúc đi, đứng, nằm, ngồi gì, nếu có niệm luôn thì có tu, mà bị gián đoạn là không có tu. Đó là điểm chánh yếu. Tất cả các pháp môn khác cũng đều như vậy.

Bạch Sư Ông để thâm nhập kinh tạng khi tụng kinh, người tụng phải làm gì để đạt được?

Để được như thế, khi tụng kinh phải thuộc lòng kinh. Chẳng những các thời khóa trong chùa phải thuộc mà các kinh mình thích cũng phải thuộc. Như tôi cũng vậy, thích Phổ Môn phải thuộc Phổ Môn, thích Kim Cang phải thuộc Kim Cang, thích phẩm Phổ Hiền phải thuộc phẩm Phổ Hiền, cho đến thích Pháp Hoa phải thuộc Pháp Hoa. Lúc trước mỗi ngày giữ đều đặn như vậy, riêng kinh Pháp Hoa thì mỗi ngày tụng một biến hoặc hai ngày một biến. Ai làm được như thế thì thâm nhập kinh tạng không khó.

Bạch Sư Ông người bận rộn với nhiều công việc không có thời gian để tụng nhiều thì làm thế nào có thể hiểu kinh được?

Người bận rộn có thể chọn các phần kinh quan trọng để tụng. Tôi đơn cử cách sắp thời gian của tôi trong quá khứ. Năm 1963, tôi phải bận nhiều công việc nên mỗi ngày không có thời gian tụng kinh Pháp Hoa. Ai cũng biết tụng kinh phải tụng luôn nếu không lại quên nên không thể tiếp tục việc tụng kinh Pháp Hoa, mà chỉ giữ lại bài kệ phẩm Phương Tiện làm thời khóa cho đến bây giờ. Bài kệ phẩm Phương Tiện cũng nhiều lắm, gần 500 câu chứ đâu phải ít. Khi có thể thu xếp thời gian thì ta tụng cố định và đều đặn hơn thì mới hiểu kinh thấu đáo được.

Hiện nay, thời khóa mỗi ngày của tôi nhất định phải có là: sáng sớm thức dậy tụng phẩm Phổ Hiền trong kinh Hoa Nghiêm, kinh Kim Cang, bài kệ phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa, kinh Phổ Môn, kinh A Di Đà” rồi hoàn kinh niệm Phật. Nếu tụng ra tiếng thì hơn 2 tiếng đồng hồ, nếu tụng thầm thì trên dưới một tiếng rưỡi. Năm nay tôi đã 94 tuổi nên chỉ thực hiện thời khóa bằng cách tụng thầm mà thôi, chứ tụng ra tiếng thì không nỗi nữa rồi. Sở dĩ tôi nói kỹ như vậy để chúng ta biết rõ cách tu tập của mình là phải có sự liên tục hằng ngày. Không nên lúc có, lúc không.

Tụng kinh niệm Phật ngoài mục đích chính yếu là vãng sanh Cực Lạc ra, còn có tác dụng hàng phục những phiền não nghiệp chướng, khiến cho những thiện căn công đức được tăng trưởng. Nếu mỗi ngày tu hành đều đặn như vậy, tất nhiên lần lần bớt đi phần phàm phu sanh tử mà tiến lần trên con đường Hiền Thánh giải thoát.

Bạch Sư Ông khi hiểu kinh rồi thì lộ trình tu bao lâu mới đạt kết quả?

Ngay đức Phật cũng phải trải qua vi trần số kiếp tu tập chứ không phải con số ức muôn mà mình thường tính toán. Phải lấy số vi trần để tính số kiếp tu hành. Rõ ràng như vậy, chính đức Phật nói chứ không ai khác. Như Phẩm Đề Bà Đạt Đa trong kinh Pháp Hoa, ngài Trí Tích Bồ tát nói: “Tôi xem trong cõi Tam thiên Đại thiên nhẫn đến không có chỗ nhỏ bằng hột cải mà không phải là chỗ của Bồ tát (chỉ cho Phật Thích Ca) bỏ thân mạng để vì lợi ích chúng sanh, vậy sau mới thành đạo Bồ đề”. Chứ không phải thường thường như chúng ta, làm được chút ít công đức gì đó mà đòi thành ông Hiền ông Thánh liền đâu. Trong kinh dạy rất đầy đủ, nhất là kinh Đại Bửu Tích nói về công hạnh của các vị Bồ tát rõ ràng lắm. Mọi người nên cố gắng tìm đọc. Tôi bây giờ phải nhờ người khác đọc để biết được công hạnh của các ngài quá khứ tu thế nào, hiện tại thành tựu thế nào.

Nói chung, việc dứt trừ nghiệp chướng phiền não để ra khỏi sanh tử luân hồi không phải là chuyện dễ. Nhưng mình có tu tập đều đặn là mình có bước đi. Mà đã có bước đi là có lúc đến. Có bước một bước là có giải thoát một bước, chứ không phải đợi đến đích rồi mới giải thoát. Thường nghĩ như vậy lại thấy vui. Bởi vì biết mình mỗi ngày có bước là mỗi ngày gần thêm bờ giải thoát. Nên nhớ kỹ là vi trần số kiếp chứ không phải ít đâu. Không phải nghe nói: “Tức tâm tức Phật” rồi cho rằng thấy tâm là thành Phật. Vì nếu như vậy là mình hơn Phật Thích Ca xa lắm rồi.

Theo: DPNN