Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Dealing with slander

Dealing with slander in Buddist perspective

In the use of Noble Silence
Thế sự đua nhau nói Dại - Khôn
Biết ai là Dại, biết ai Khôn
Khôn mà như thế là "khôn dại"
Dại được như ri, ấy "dại khôn".


Tiếng thị phi (piece of slander):
Thị: nghĩa là đúng,
Phi: nghĩa là sai.
Vậy tiếng thị phi là dư luận của mọi người chung quanh về một người; đã thành lời đồn, lời phê phán.

Trên bước đường tu học, Phật tử chúng ta (hoặc những ai chưa là Phật tử) sẽ không tránh khỏi những hàm oan. Câu hỏi đặt ra ở đây là: << Vậy bằng cách nào chúng ta có thể vượt qua được những oan khiên đó dưới góc nhìn của một người tu học? >>.

Giải tỏa oan ức

Tất cả chúng ta sống trên cuộc đời này, ai cũng có nỗi lo, nỗi khổ, nhất là cảm giác bị oan ức là nỗi khổ lớn. Oan ức là những điều mình không làm mà bị người khác đổ lỗi, nên mình cảm thấy ức lòng, đau khổ. Muốn giải tỏa nỗi oan ức này, chúng ta làm cách nào ?

Luận Bảo Vương Tam muội dạy rằng oan ức không cần biện minh, vì càng biện minh thì nỗi hàm oan càng lớn. Lời dạy này hơi khó hiểu. Đa số chúng ta tin rằng mình có thể giải tỏa được oan ức; nhưng sự thật càng giải, nỗi hàm oan dường như càng tăng trưởng mà tôi có cảm giác giống như chiếc còng số tám, nếu càng vùng vẫy thì cái còng càng siết chặt lại, thà cứ để yên, chúng ta sẽ thấy nhẹ hơn và làm sao tay chúng ta tự nhỏ lại để rút tay ra khỏi cái còng, hay ngược lại, làm sao cái còng mở ra được. Làm tay mình thu nhỏ lại chắc chắn là rất khó, hoặc làm chiếc còng mở ra được cũng không dễ; nhưng chỉ có hai cách này mà thôi.
Nếu là chiếc còng số tám thật, tra chìa khóa vô thì mở được. Còn chiếc còng oan ức siết tâm mình thì cũng phải tìm chìa khóa mở ra. Nhưng nếu không tìm thấy chìa khóa, phải nhờ các bậc thiện tri thức chỉ cho chúng ta. Thiện tri thức lớn nhất là Phật và các vị Tổ sư đắc đạo, các Ngài đều có chìa khóa mở cửa thoát ra khỏi tam giới.

Vấn đề đặt ra ở đây là giải oan ức, nhưng phải tìm oan ức này ở đâu? Có thể khẳng định rằng nỗi oan ức thật sự do chúng ta tạo nên cho chính mình. Đức Phật đã chỉ thẳng rằng tất cả mọi việc do chúng ta tự tạo ra và sự tạo dựng lớn nhất của chúng ta là tạo ngôi nhà ngũ ấm và tạo ngục tù tam giới, từ đó phát sinh tất cả khổ đau của mọi người trên thế gian này.
Đức Phật đã trao cho chúng ta chiếc chìa khóa là 37 trợ đạo phẩm để mở cánh cửa ngục tù tam giới, mở cánh cửa của Nhà lửa để chúng ta thoát ra. Tất cả các vị thánh La hán và chư Bồ tát đã tìm được chìa khóa và các Ngài đã thoát ra rồi, nhưng vì thương chúng sinh mà các Ngài đã trở lại nhân gian này với dạng hình con người. Chúng ta thấy trên mặt hiện tượng, Bồ tát hay thánh La hán có hàm oan, nhưng thật sự không phải như vậy; vì các Ngài trở lại cuộc đời bằng tâm từ bi và trong tay các Ngài có vô số phương tiện hữu hiệu, đồng thời trong tâm các Ngài cũng có diệu pháp, tức là đại dụng. Bồ tát và La hán là hai bậc Thầy lớn có đủ khả năng giúp chúng ta tháo gỡ những oan ức.

Trên bước đường tu, nếu không nương được Bồ tát và La hán, người ta sẽ ở mãi trong sinh tử, không thoát ra được và oan ức này sẽ chồng lên oan ức khác, cho đến lúc họ phải vào địa ngục Vô gián, vì càng tháo gỡ theo kiểu phàm phu thì chiếc còng oan ức càng siết chặt họ hơn. Thật vậy, thực tế cho thấy lúc bắt đầu, sai lầm của họ không có, hay có rất ít, nghĩa là nỗi oan ức của họ không lớn, nhưng vì không nhìn đúng sự thật của vấn đề, cứ nghĩ họ đúng, họ bị oan ức và nuôi lớn nỗi oan ức đó, nên họ cứ tranh đấu hoài, thì lòng sân hận và hành động sai trái theo đó tăng dần, cho đến lúc họ không chịu nổi, sẽ kết thúc bằng tự tử. Con đường đi vào sinh tử là vậy.
Đức Phật mới mở ra cho loài người con đường giải thoát, thực tập pháp Phật đến đâu thì được giải thoát đến đó, tức đã phát huy được trí tuệ theo Phật. Tất cả các pháp môn Đức Phật dạy đều là chìa khóa mở cánh cửa ra khỏi ngục tù tam giới. Đức Phật đã trao chìa khóa và chúng ta chỉ cần tra chìa khóa vào là bước ra khỏi mọi trói buộc, khổ đau. Phật là vị đại Đạo sư đã chỉ dạy con đường thoát hiểm nạn trầm luân sinh tử, việc đi ra hay không là tùy ở chúng ta.
Đức Phật trao cho chúng ta chìa khóa của kinh Pháp Hoa là tam thừa giáo để ra khỏi sinh tử, ra khỏi Nhà lửa, đến bãi đất trống, nghĩa là tâm chúng ta trống sạch, được giải thoát, tất cả nỗi oan ức trong lòng không còn. Lúc đó chúng ta vẫn còn thân người nhưng là người giải thoát thanh tịnh, không phải chết mới được giải thoát; nhiều khi chết khổ hơn, vì mang thân người mới có điều kiện tốt để làm Tiên, làm Thánh, làm Phật; còn nếu lỡ rớt xuống làm heo, làm gà thì khó tu lên được.
Trong loài người, ta mới được Phật trao cho chìa khóa tam thừa; Ngài nói rằng trong tứ sanh lục đạo, chỉ loài người mới có điều kiện ra khỏi tam giới. Tất cả các loài khác muốn ra khỏi tam giới, phải tái sinh làm người, rồi tu lên, mới làm Tiên, làm Thánh, làm Phật.

Khi phát tâm Bồ đề, thật sự tu theo Phật, nhìn kỹ thấy trên cuộc đời này những nỗi oan ức thường là “oan Thị Mầu”, không phải oan Thị Kính, vì Thị Kính đã lấy được chìa khóa tam thừa mở thoát ra, giải được nỗi oan. Ai cứ thấy mình oan ức là người đó đang tu theo Thị Mầu, hay tu theo Đắc Kỷ đã tu một ngàn năm, nhưng tánh ác hại người bên trong còn nguyên mà miệng cứ kêu oan.
Bước chân vào Phật pháp, an trụ trong yếu lý Phật dạy, thấy được thật tướng các pháp mà Phật nói rằng ở trong tam giới không có sinh tử, nhưng vì vô minh vọng kiến ngăn che, tạo nên các tội sai biệt, rồi cứ kêu oan. Tất cả mọi việc đều do chúng ta tạo, kinh Hoa Nghiêm gọi là nhứt thiết duy tâm tạo. Nếu tâm chúng ta thánh thiện sẽ tạo nên Bích chi Phật, La hán, Bồ tát; nếu tâm chúng ta ác sẽ tạo thành ác ma, cao nhất là ma Ba tuần, dẫn vào thế giới ma.
Chìa khóa Phật trao cho loài người là Ngài trao cho Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát để cứu nhân độ thế. Những vị này đã có chìa khóa, đã tự mở được ngục tù cho họ rồi và cũng mở ngục tù cho mọi người thoát ra. Nếu không nương vào ba hàng đệ tử này để ra khỏi ngục tù của ba cõi, chúng ta sẽ lẩn quẩn mãi trong tam giới và tội cũ sẽ chồng chất thêm tội mới, cứ như vậy phải khổ triền miên, rồi nói tôi tu sao mà khổ vậy.
Chúng ta phải biết cái gì tạo khổ đây. Đức Phật nói do Thức chúng ta tạo. Đa số chúng ta sống theo vọng thức, từ bỏ chơn tâm. Vọng thức là lòng ham muốn, tánh ích kỷ của chúng ta. Chúng ta sống với vọng thức nhiều hơn mới dẫn đến khổ đau. Vì vậy, trên bước đường tu, muốn hết khổ, phải xóa vọng thức. Bồ tát chuyển được vọng thức thành tuệ giác là hiểu biết, nên không bao giờ khổ.

Không biết thì thực không khổ, nhưng cảm thấy khổ. Ví dụ những người xung quanh nói xấu tôi, nhưng tôi không nghe, không biết, nên tôi không khổ. Lỡ có người nghe lời nói xấu, họ kể lại cho tôi rằng ông A nói xấu tôi vậy đó, nghe xong tôi cảm thấy khổ. Nghĩa là do nghe, suy nghĩ, biết, mà cảm thấy mình bị oan ức rồi buồn khổ, thì đó là oan Thị Mầu, tức đã tạo tội rồi mà còn kêu oan.
Người tu xóa oan ức theo Phật dạy bằng cách không nghe, không thấy, không suy nghĩ, thì tạm cắt bỏ được vọng thức ở bước đầu; vì vọng thức này phát xuất từ thấy, nghe, suy nghĩ gọi là nhãn thức, nhĩ thức và ý thức, tạo nên hiểu biết đau khổ.
Ai nói chúng ta không nghe, ai làm chúng ta không thấy, nên tâm chúng ta không suy nghĩ. Đức Phật dạy muốn ra khỏi sinh tử, được giải thoát, phải cách ly thế sự. Vì vậy, người tu thường ở trong phòng đóng cửa lại, hoặc ở trong hang đá, ở núi rừng vắng vẻ, không liên hệ với cuộc đời, để khóa cánh cửa địa ngục, mở cánh cửa Niết bàn. Nói cách khác, cánh cửa trần gian đóng lại, mở Phật pháp bên trong là tu hướng nội khác với hướng ngoại thì nghe biết đủ thứ chuyện trên cuộc đời, nên biết nhiều khổ nhiều, không biết không khổ. Thậm chí một chút nữa trời sập, nhưng mình không biết thì vẫn tỉnh như không, còn biết trời sắp sập, dù chưa sập nhưng trong lòng cứ cảm thấy lo sợ, phải tự khổ thôi.

Trong khóa tu này, các Phật tử tập tu bằng cách không biết việc của thiên hạ, vì biết như vậy sẽ làm bẩn tâm mình, tự khổ thêm. Càng biết nhiều việc của cuộc đời, chắc chắn nỗi khổ sẽ lên đến cùng tột. Người tu không dại gì đem khổ của thiên hạ vô tâm mình để khổ. Chúng ta thấy Đức Khổng Tử chỉ có ý thức muốn bình thiên hạ mà cả cuộc đời của ông luôn lận đận lao đao. Làm sao bình được thiên hạ, việc này không thể được, nhưng ông cứ muốn như vậy mà tự khổ; tức hiểu biết đã làm ông khổ. Hạng Thác là người chăn trâu hỏi Khổng Tử trả lời được ba câu thì mới xứng đáng là Vạn Thế Sư Biểu, tức làm Thầy muôn đời. Khổng Tử đáp rằng một trăm câu cũng trả lời được, chẳng lẽ không trả lời nổi ba câu của kẻ mục đồng. Hạng Thác hỏi trên trời có bao nhiêu vì sao. Khổng Tử bảo nói chuyện trên trời làm sao biết được, hãy nói chuyện trên mặt đất. Nhưng ông cũng không trả lời được câu hỏi thứ hai là trên trái đất này có bao nhiêu người. Ông tức mình bảo phải nói chuyện trước mắt, đừng nói chuyện bao la. Vậy thì câu hỏi thứ ba là cho biết cặp chân mày của ông có bao nhiêu sợi lông. Dĩ nhiên là ông đành chịu thua. Câu chuyện này nhằm nói rằng hiểu biết của con người có giới hạn, nhưng muốn làm chuyện quá lớn lao rồi tự khổ. Nếu Đức Khổng Tử từ bỏ ý nghĩ muốn bình thiên hạ, chắc chắn ông vẫn sống ung dung tự tại, vì với trí khôn ngoan hiểu biết ông cũng giúp được cho cuộc đời nhiều lắm chứ.
Trước tiên, Đức Phật trao chiếc chìa khóa thứ nhất cho hàng nhân thiên thoát ra khỏi khổ đau. Con người muốn hết khổ, không còn oan ức nữa, Phật khuyên chúng ta chỉ cần giữ năm giới cho tốt. Nếu đã giữ năm giới tốt, nhưng còn bị oan ức là do túc nghiệp của chúng ta, tức là nghiệp của đời trước. Nhìn cuộc sống chúng ta hiện tại mà biết được túc nghiệp mình. Nếu sanh trong gia đình cờ bạc, hút xách, chắc chắn chúng ta phải mang tất cả nghiệp của dòng họ mình. Chúng ta có nghiệp này mới sanh vô gia đình như vậy. Nếu sanh trong vùng chiến tranh hay ở vùng biên giới không có văn minh, tự biết nghiệp của mình đời trước không tốt. Sanh ra trong gia đình nghèo đói, thân thể ốm o, rách rưới mà đến nhà sang giàu thì dễ bị hàm oan. Tôi xuất thân từ giai cấp nông dân nghèo khổ, nên nhận ra điều này rất rõ và vâng lời Phật dạy, tôi giải được nghiệp này. Nghèo nàn thì ta không nên đến chỗ sang trọng, vì dễ bị đổ oan rằng mình ăn cắp, bị đánh, bị tù tội, bị giết chết. Nghiệp nghèo khổ đời trước đã có, đời này không muốn bị oan ức, tốt nhất là tránh những nơi giàu có. Ý này trong kinh Pháp Hoa, Ca Diếp đại diện cho các trưởng lão thưa với Đức Phật rằng người cùng tử không dám vào nhà sang trọng của ông trưởng giả, mà phải tới xóm nghèo làm thuê mướn, sau đó mới được vào ở am tranh hốt dọn phân nhơ. Nghĩa là chúng ta đến được Phật pháp, phải chấp nhận thực tế cuộc sống của mình, phải sống đúng thân phận và hoàn cảnh tương ưng với mình thì người ta mới để cho mình yên thân mà tu.

Riêng bản thân tôi, trong khoảng thời gian từ 10 tuổi cho đến 30 tuổi, trong suốt 20 năm, tôi không có một vật nào có giá trị để không bị oan ức; vì có ai mất đồ, thấy tôi sống đơn giản, chắc chắn họ không nghi tôi ăn trộm. Chỗ ở và thức ăn của mình đạm bạc tới mức tối đa, thì ai nghĩ mình ăn cắp.
Tu hành chúng ta phải nhận ra túc nghiệp của mình để hóa giải. Oan ức do nghiệp đời trước mang vô thân đời này rồi, chúng ta phải tìm cách xóa sạch. Nghiệp nghèo đói do gian tham trộm cắp, nghiệp bệnh hoạn do sát sanh hại mạng, nghiệp tà dâm nên thân thể xấu xí hôi dơ; nghĩa là phải kiện toàn thân tâm mình trở thành thanh tịnh thật sự.
Chìa khóa ngũ giới mà Đức Phật đưa cho chúng ta, để thực tập đời sống phạm hạnh, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói bịa đặt, không uống rượu. Thực tập được năm điều tốt đẹp căn bản này, tất cả hàm oan sẽ không đến với chúng ta nữa, hoặc thực tập đến đâu sẽ giải thoát đến đó. Còn tham vọng lớn, đòi hỏi nhiều, tiêu xài phung phí, nợ chồng chất thì phải khổ thêm, không thể khác. Trên bước đường tu theo Phật, hãy sống với những gì mình có, hay sống dưới mức mình có càng tốt; nói cách khác, làm nhiều hưởng ít, mới tích lũy được công đức, chắc chắn cuộc sống an lành giải thoát ngay, không đợi kiếp sau.
Muốn đời sống chúng ta được nâng cao hơn, Đức Phật trao chiếc chìa khóa thứ hai là thập thiện. Tu thập thiện nghiệp, tức làm mười điều lành sẽ được người kính trọng. Thập thiện nghiệp là mười giới gồm có ba giới của thân (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm), bốn giới của miệng (không nói lời bịa đặt, không nói lời hung ác, không nói lời đâm thọc, không nói lời gây chia rẽ) và ba giới của ý (tham, sân, si). Thực hiện mười nghiệp thiện sẽ được lên cõi Trời là cảnh giới sống được tốt đẹp hơn cõi người.

Ví dụ đối với việc thiện của thân, chẳng những chúng ta không sát sanh mà còn có lòng từ hộ mạng chúng sinh. Vì có hộ mạng tức cứu giúp người hoặc loài vật, mình sẽ được họ thương kính, quý trọng, nghĩa là tư cách của mình được nâng cao gọi là chư Thiên. Đọc truyện Tây du ky, có ông Trần Quang Nhị đã cứu con cá vàng thoát chết. Khi ông bị người ác xô xuống sông, vì đời trước ông đã giết người này; nhưng nhờ ông đã cứu con cá vàng nên nó nhớ ơn, hiện ra cứu ông. Mình có bố thí, giúp đỡ, người mang ơn, lỡ mình sa cơ thất thế, họ sẽ giúp lại mình.
Như vậy, Đức Phật đã trao cho loài người hai chìa khóa, một chìa khóa thập thiện nghiệp để mở cửa thiên đường và một chìa khóa ngũ giới để được tái sinh làm người không còn bị hàm oan. Còn tạo nghiệp ác kiếp trước, thì sanh lại đời này thường bị hàm oan và từ đó lại tạo thêm nhiều nghiệp để phải chịu oan nữa.
Tuy hai chìa khóa này giúp chúng ta thoát những nỗi khổ đau và oan ức, nhưng chỉ là giải quyết tạm thời trên cuộc đời này, vì khi hết oan ức và hưởng hết phước, lại tạo tội, rồi rớt xuống khổ đau thì gặp oan ức nữa. Cứ như vậy mà chúng ta lẩn quẩn từ kiếp này sang kiếp khác trong tứ sanh lục đạo.
Đức Phật vì tâm đại bi muốn cho chúng ta ra khỏi sinh tử luân hồi, Ngài mới trao thêm ba chìa khóa khác mà kinh Pháp Hoa gọi là ba xe, xe dê, xe nai, xe trâu, phải dùng ba xe này mới ra ngoài sinh tử và thành tựu quả vị Phật được. Đức Phật cho ba hạng người là La hán, Bích chi Phật và Bồ tát sử dụng ba xe này, tức tam thừa giáo; còn các pháp tu khác dành cho nhân thiên.

Muốn tu ba pháp Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát thừa để ra khỏi sinh tử, Đức Phật dạy chúng ta phải hạ thủ công phu miên mật, không phải bình thường. Đầu tiên tu Thanh văn thừa để đắc La hán, đó là pháp mà con người dễ thực tập nhất, gần nhất và nhanh nhất. Quả La hán có bốn cấp bậc: Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm và A la hán. Bốn cấp bậc này chúng ta tưởng khó, nhưng không khó lắm, vì đó là thế giới của nội tâm, tức chỉ tu tâm. Vì tu tâm, nên chúng ta thấy các vị La hán chỉ ngồi yên, không làm gì, nhưng họ đang quán sát sự vận hành của tâm và điều động được tâm, nên quả chứng của họ rất lớn, chẳng những giải sạch tất cả oan trái trên cuộc đời này, mà họ còn vĩnh viễn ra khỏi tam giới. Trong khi hàng nhân thiên giải được hàm oan này lại rơi vào hàm oan khác, tạo phước cũng trầy trật lắm, nhưng có phước rồi, được sống sung sướng ở cõi trời, hưởng một lúc phá sản, lại rớt xuống, có thể rớt thẳng xuống ba đường ác, còn may mắn thì tái sinh cõi nhân gian, lại bị khổ đau hàm oan nữa.
Tóm lại, năm chìa khóa mà Đức Phật đã trao cho chúng ta để mở các cánh cửa đi vào những cảnh giới tốt đẹp, từ cõi người đến cõi Trời, cho đến những cảnh giới của hàng tứ Thánh là Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Phật. Chúng ta nhờ có căn lành sâu dày mới được làm đệ tử Phật, được tu học trong giáo pháp của Ngài, cầu mong rằng tất cả mọi người nỗ lực tinh tấn tu hành, tùy theo tâm lực, đạo lực, huệ lực mà từng bước trong cuộc sống này và muôn kiếp về sau, chúng ta thường ra vào tự tại những cảnh giới tốt đẹp trong mười phương Pháp giới để thành tựu viên mãn phước đức trí tuệ của Bồ tát hạnh, đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng - Chánh giác.

HT Thích Trí Quảng

Chúng sinh có hai đại loại:
1.      Hữu tình: Những động vật có tình thức, cảm giác.
2.      Vô tình: gồm thực và khoáng vật.
Con người là một trong hàng vạn vạn loại hữu tình chúng sinh.
Một cách tổng quát, con người là sự kết hợp mầu nhiệm, nhịp nhàng giữa 2 phần: Vật chất và tinh thần, tức Ngũ uẩn theo danh từ Phật giáo. Trong ấy, sắc thuộc vật chất, thọ, tưởng,hành và thức thuộc tinh thần.
Nếu dùng nhãn quang khoa học để phân tích thân thể con người thì chúng ta sẽ thấy gồm các chất tố sau đây:
Nước chiếm 75%, còn lại 25% bao gồm:
1.      Khoảng 2 lượng muối
2.      Một ly nhỏ đường
3.      Chất mỡ có thể làm được 6 miếng xà phòng thông thường
4.      Chất lân (phosphor) có thể làm 20 que diêm
5.      Chất sắt có thể làm thành một cây đinh nho nhỏ
6.      Chất thạch khôi (lime: đá vôi) có thể dùng để tiêu độc cho 1 cái lồng nhốt gà nhỏ
7.      Chất lưu huỳnh, giết được rận (bọ chét) cho một con chó
8.      Chất đạm khí (Nitrogen) chỉ đủ làm thuốc súng cho 1 phát súng bắn chim
Qua phân tích trên chúng ta thấy con người quả thật giả tạm, vô nghĩa.
Đức Phật còn đi xa hơn, không những với loài hữu tình chúng sinh mà cả với thế gian (Sa Bà thế giới), với quả đất này Ngài đều bảo rằng:
“Như bọt nước trôi sông, như lầu sò, chợ biển, nếu xem đời bằng cặp mắt ấy thì thần chết không đến được.” (Kinh Pháp Cú, Phẩm Thế Gian, câu 170 )
Từ xưa đến nay, từ đông sang tây hễ là người thì ai cũng muốn an vui, hạnh phúc, tham sống sợ chết, nhưng sao khắp đó đây loài người vẫn mãi khổ đau, chết chóc một cách oan uổng, tức tưởi!?
Khổ đau chết chóc vì thiên tai (bão lụt, động đất…) là điều tự nhiên ( không kể 2 trận lụt vào tháng 11 và 12-1999 tại miền Trung Việt Nam) nên nỗi đau ấy không mang tính tủi nhục, đắng cay như sự khổ đau do con người gây ra cho chính loài người. Vì, khác với THIÊN TAI, NHÂN HỌA ẩn tàng các độc tính: tàn nhẫn, man rợ, đê tiện, ích kỷ, gian tham, bẩn thỉu, đố kỵ, giả dối lưu manh, tiểu nhân, thú vật, phản bội vong ân, ám muội, nhỏ nhen, hỗn xược, kiêu căng, phách lối, ngu muội hận thù.v..v…
Nhưng các độc tố trên từ đâu mà có? Nói khác đi, cái gì là nguồn gốc phát sinh ra chúng?
Xin thưa, thỉ tổ chúng là “Ông thị và Bà phi”.
Nói ông bà kỳ thực chúng như nước với lửa, bóng tối với ánh sáng…Vì, THỊ là điều phải, lẽ phải, còn PHI là sai trái. Nội dung bài này sẽ bàn về chữ Thị, Phi theo nhãn quang người viết.
Trước khi đi sâu vào vấn đề, chúng tôi tạm đưa ra một công thức (đồ biểu) mô tả về tiến trình của Thị Phi.
Mê m- Tham lam- Thù hn- Hãm Hi- Chiến Tranh
Ước gì mọi người có cùng một trình độ, một lập trường, một hướng nhìn, một tâm tình như nhau khi đứng trước một vấn đề. Ước gì mọi người đều chịu khó bỏ cặp kiếng màu xuống thì mọi việc đều êm đẹp hết. Nhưng trước sau điều đó chỉ là một ước mơ, một “bạch nhật mộng”! Vì thế, trên khắp mặt địa cầu giặc giã, chém giết triền miên cơ hồ như không bao giờ ngừng nghỉ.
Đã là người, chúng ta không thể không phân biệt PHẢI (thị) TRÁI (phi), nghĩa là chúng ta không thể sống kiểu hoạt đầu, ba phải. Nhưng thế nào là phải và trái theo nghĩa tương đối trong cuộc đời này?
Dĩ nhiên không nhất định vì có nhiều người theo mà gọi là THỊ. Thị là việc gì, điều gì đem lại an vui, hạnh phúc cho mọi người, mọi loài ở hiện tại và cả tương lai nữa, ngược lại là Phi.
Song khốn nỗi trong đời này, ít ai thấu hiểu được cái nghĩa thị phi, do đó, thay vì bênh vực cái thị, bài trừ điều phi để đem lại công bằng, trật tự cho xã hội thì trái lại, người ta ưa chuộng, ôm ấp đìều phi và ghét bỏ cái thị, nghĩa là, người đời vì “tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc” nên lấy trái làm phải. Cho phải là trái, nhận giặc làm con. Đó chính là nguyên nhân gây ra khổ đau, loạn lạc, sanh tử luân hồi vô cùng tận. Đúng như Đại Chính tạng, tập 52, trang 491 đã nói:
“Thế bất đạt giả đa tương thị phi, dĩ thị kỳ sở thị nhi phi kỳ sở bất thị, bất phi kỳ sở phi, nhi phi kỳ sở bất phi. Thử tắc thị kỳ sở phi nhi phi bỉ sở thị hỉ.”
Nghĩa là:
Ở đời, những kẻ không thông đạt thường hay lầm lẫn giữa thị và phi, nên thay vì khen điều phải, chê điều trái thì họ lại theo điều trái, bỏ điều phải. Như thế là họ đã lấy trái làm phải, lấy phải làm trái vậy! 
Ngoài ra, lại còn tự thi nhi phi nghĩa là mới xem qua hình như đúng song kỳ thực sai. Đó là lời nói và việc làm của những kẻ đạo đức giả, ức tưởng, đoán mò, ngôn hành theo sự chi phối của bản năng, lợi danh, vô minh hay sự hiểu biết phiến diện, hạn hẹp của kẻ mù rờ voi. Đây cũng là nhân tố gây ra khổ não cho xã hội nhân quần nói chung. Vì đương sự đã lấy điểm làm diện , lấy bộ phận làm toàn thể.  
Trên đây chúng ta quan niệm thị phi theo thực tế tương đối của thế gian. Dưới đây là quan niệm về thị phi theo nghĩa xuất thế tuyệt đối.
Theo nghĩa này, trước hết nên nói đến điều thứ 10 trong Mười Điều Tâm Niệm của Luận Bảo Vương Tam Muội:
“Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả.”
Biện bạch là cốt tìm cho ra lẽ phải trái. Nếu mình phải (thị) thì người trái (phi) và ngược lại. Nhưng một khi đã có ý tranh biện hơn thua thì tự khắc cái lằn ranh nhân (người khác) ngã liền dựng dậy. Đã thấy có ngã nhân tức là tinh thần đại bi đồng thể trong tứ vô lượng tâm bị nhạt nhòa ngay. Ấy là mầm mống tạo ra loạn lạc triền miên trên địa cầu bé bỏng của chúng ta. Hơn nữa, như trên đã nói nhân và ngã chỉ là sự kết hợp tạm thời của hai yếu tố tinh thần lẫn vật chất. Vì thế, nó tạm bợ, mong manh như hạt sương mai trên đầu ngọn cỏ, có đó rồi không đó.Mặt thật của ngã nhân là vậy, do đó, sự tranh biện hơn thua giữa mình và người có khác chi sự giành giật vô nghĩa của hai giọt sương đâu? Đúng như lời dạy trong kinh Pháp Cú. Phẩm Song Yếu, câu thứ 6:
“Người kia không hiểu rằng chúng ta sắp bị hủy diệt nên mới phí sức tranh biện hơn thua. Nếu hiểu thì chẳng còn tranh biện nữa.”
Bởi vậy, Đức Phật dạy người tu hành nên: “ Lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh. Lấy hoạn nạn làm giải thoát. Lấy ma quân làm bạn đạo. Lấy chống đối làm nơi giao du.”
Nên chi, chấp thuận trở ngại thì lại thông suốt, mong cầu thông suốt thì sẽ bị trở ngại. Đức Thế Tôn thực hiện tuệ giác bồ đề trong sự trở ngại, như Ương Quật hành hung, Đề Đà khuấy phá mà Ngài đều giáo hóa cho thành đạo cả. Như vậy, há không phải chính sự chống đối lại làm sự thuận lợi và sự phá hoại trở nên sự tác thành cho ta sao?
Lấy lời Phật dạy làm nền tảng, trong bài khuyến thế ca. Hàm Sơn đại sư cũng chủ trương:
“Thị phi bất tất tranh nhân ngã
Bỉ thử hà tu luận đoản trường
Thế sự do lai đa khuyết hãm
Huyễn khu yên đắc miễn vô thường
Cật tá khuy xứ nguyên vô ngại
Thoái nhượng tam phân giã bất phương…”
Đại ý nói, cuộc đời xưa nay vốn dĩ bất toàn, què quặt thì thân mạng chúng ta làm sao có thể tránh thoát được sự biến hoại, bọt bèo? Sống trong một thực trạng bèo mây bấp bênh như thế sao người đời cứ mãi tranh giành được mất hơn thua? Chúng ta nhường một bước, chịu thiệt thòi một chút có sao đâu? Vì thắng hay bại cuối cùng cũng đều chịu kiếp phù vân, có ai lột da để sống đời? Phương chi trong kinh Pháp Cú, Phẩm An Lạc, câu 201 Đức Thế Tôn đã huấn thị rành rành:
“ Thắng lợi bị thù oán, thất bại bị đau khổ, chẳng màng tới thắng bại, sẽ sống hòa hiếu an vui.”
Nhưng muốn an vui, hòa hiếu thì trước hết mọi người phải nhận rõ địa vị và trách vụ của mình. Ngoài ra, còn phải biết tôn trọng lẽ phải, biết phục thiện và biết lắng nghe. Được vậy thì thế gian này là Tịnh Độ chứ chẳng cần tìm đâu xa. Vì chính cái ý niệm biết trọng lẽ phải (Tri Thị) tôn trọng và thực hành lẽ phải, ấy là Đâu Suất Tịnh Độ chứ chẳng phải nhọc công kiếm tìm, như Ngài Hàm Sơn dạy:
“ Tri thị tiện đăng Đâu Suất giới
Hà lao thử ngoại mích tây phương.”
Với con người tương đối, sống trong hữu hạn, nên chúng ta thấy có: ngã, nhân, bỉ, thử, thị, phi…Nhưng với nhãn quang của người đã minh đạt Chánh Pháp thì ranh giới thị phi không còn, vì phiền não là bồ đề ngoài phiền não không có bồ đề, ngoài thế gian pháp không có Phật Pháp, chẳng có bồ đề: “ Phật Pháp bất ly thế gian pháp, ly thế mích bồ đề, kháp như cầu thố giác: Phật Pháp không tách khỏi thế pháp, lìa thế gian để tìm bồ đề (sự giác ngộ) chả khác gì đi tìm sừng thỏ.” ( Lục Tổ Huệ Năng).
Một khi đã sống trọn vẹn với tinh thần bất tức bất ly thì còn đâu ranh giới giữa thị phi, bồ đề và phiền não. Từ đó chúng ta mới chịu đựng được mọi phiền não, mới tự tại giải thoát và ung dung đứng ngoài, đi trên tất cả thị phi. Đó là thâm ý của Ngài Bách Trượng Hoài Hải:
“ Phiền não dĩ nhẫn nhục vi bồ đề
Thị phi dĩ bất biện vi giải thoát”
Người đời thường bảo: “Hay nói không bằng nói hay.” Bởi thế, không tranh biện ( bất biện) chẳng phải không biết, kỳ thực vì biết quá nhiều, tránh lối sống nhị nguyên, vì muốn thực hành lời dạy nhiệm mầu của đấng Vô Thượng Giác:
“Nên im lặng như hiền thánh
Nên nói năng như hiền thánh.”
Thế nào là im lặng và nói năng như hiền thánh?
Xin xem câu chuyện này:
“Hai thầy trò Thiện Niệm và Phạm Ma Đạt. Thiện Niệm đi sau Đức Phật và tìm mọi cách nói xấu Ngài. Trái lại, người học trò là Phạm Ma Đạt thì hết sức ca ngợi Đức Phật.
Đức Điều Ngự hoàn toàn im lặng và cứ thế đi với dáng vẻ an tường tự tại.
Về đến tịnh xá, các thầy tỉ khưu bàn bạc với nhau: Lạ quá! Đấng Thiên Nhân Sư là bậc có đủ thiên nhãn, thiên nhĩ thông, sao người ta làm vậy mà không nghe thấy Ngài nói năng gì cả?
Nhân đấy Đức Phật dạy hai câu vừa dẫn trên đây.”
Suốt 45 năm giáo hóa, bằng vào thái độ siêu phàm và cao diệu, đức Phật không những chịu đựng được mọi điều ác của thế nhân mà còn giáo hóa được kẻ ác như bài học thứ 7 trong kinh Bốn Mươi Hai Chương:
“Hữu nhân văn ngô thủ đạo, hành đại nhân từ, cố trí mạ Phật.
Phật mặc bất đối.
Mạ chỉ, vấn viết:
Tử dĩ lễ tùng nhơn, kỳ nhân bất nạp, lễ quy tử hồ?
Đối viết: Quy hỉ
Phật ngôn: Kim tử mạ ngã, ngã kim bất nạp.
Tử tự, trì họa quy tử thân hỉ!
Do hưởng ứng thanh, ảnh chi tùy hình, chung vô miễn ly
Thận vật vi ác!”
Nghĩa là:
Có người nghe nói Đức Như Lai là bậc đạo hạnh, có lòng thương bao la, nên họ cố ý đến mắng Ngài.
Đấng Toàn Giác im lặng.
Khi người ấy ngừng chửi, Đức Phật hỏi:
Ông đem lễ vật cho ai, người ta không nhận thì ông đem vật ấy về phải không?
Vâng!
Phật dạy: Cũng thế, nay ông mắng tôi, tôi không ưa nghe tức ông tự mang vạ vào thân, như vang (echo) theo tiếng, bóng với hình không bao giờ rời nhau. Xin đừng làm ác!
Thử hỏi, nếu không có một thái độ siêu việt, bao dung, thiện xảo như Đấng Chánh Biến Tri thì việc gì sẽ xẩy ra?
Muốn xứng đáng là con Phật, chúng ta cần phải học và hành theo hạnh Phật. Có thế mới lợi mình, lợi người và không bị người đời chê là “ hữu danh vô thực” hay “ danh bất phù thực”.
Để kết thúc, người viết xin tặng bạn đọc 2 bài thơ:
Bài 1: Phiên âm:
Nghịch cảnh lai thời thuận cảnh nhân
Nhân tình sơ xứ đạo tình thân
Mộng trung hà tất tranh nhân ngã
Phóng hạ thân tâm kiến càn khuân (khôn)
Dịch thơ:
Nghịch cảnh ấy là nhân thuận cảnh
Nhơn tình xa thì đạo tình gần
Tranh chấp làm chi trong mộng huyễn
Không màng tất cả thế mới chân.
Bài 2: Phiên âm
Thế sự phân phân như thiểm điện
Luân hồi cổn cổn tự vân phi
Kim nhật bất tri minh nhật sự
Na hữu công phu luận thị phi.
Dịch thơ:
Thế sự qua nhanh như điện chớp
Luân hồi tuôn chảy giống mây bay
Nay còn mai mất nào ai biết
Công đâu ngồi tán chuyện dở hay.
Tóm lại, qua sự trình bày sơ lược trên đây chúng ta đã hiểu ít nhiều về thị phi tương đối và tuyệt đối. Điều cốt yếu là phải linh động, sáng suốt để tránh cái nạn nhân ế phế thực nghĩa là vì hay mắc nghẹn trong khi ăn nên bỏ ăn để bị chết đói một cách oan uổng.
Thích Chánh Lạc
<< in silence, man can most readily preserve his integrity >>.
Meister Eckhart

<< The most profound statements are often said in silence >>.
Lynn Johnston

Vị kỷ & đường tu

Egoistic Moralism and Buddist Followers
Tâm ích kỷ & người tu
Người xuất gia hành trì khất thực để loại bỏ tâm ích kỷ cá nhân & hướng đến sự giải thoát, an lạc.



 ... nhị tu sơn 
 
 ...nhất tu thị

So...should a Buddist monk lead:
a very simple life in a small spartan hut called kuti* ?
or
a colourful life in a big beautiful & very comfortable monastery ?
 

Here are the phonetic lyrics:
Namo tanaha tayayah;
Namo aryachana sagara veilochana yuharatchaya tatagataya alahate samyasam buddhaya;
Namo sarva tatagate beiala hatabei samyaksam buddhebei;
Namo arya avolukite shyuraya bodhisattvaya mahasattvaya mahakarunikaya tadya ta;
Om tara tara tiri tiri turu turu ;
Itiwei itiyichale chale pulahachale pulahachale;
Kusume kusumawa ray ili mili chitti thohala mapa maya syoha.
 

*Kuti: Kuti means hut or home for a monk

Arya Asanga & his karuna

Ngài Vô Trước &amp; Đức T Bi
Ngài Vô Trước sinh vào thế kỷ thứ IV thuộc vùng Tây Bắc Ấn độ (Cachemire ngày nay). Ngài là một Đại luận sư Phật giáo, sáng lập ra Duy Thức tông và cũng là anh khác cha của Thế Thân (Vasubandhu), một Đại luận sư lừng danh khác của Phật giáo. Cả hai còn có một người em cũng là một vi Đại sư. Câu chuyện về cuộc đời của Vô Trước như sau:
Ngài đi tu và được thụ phong tỳ kheo theo tông phái Nhất thiết hữu bộ (Nam tông). Ngài tu học Tam Tạng Kinh trong năm năm liền. Sức học của Ngài rất cao và việc học rất sáng chói, nhưng Ngài vẫn không thấu hiểu hết ý nghĩa của Bát-nhã Ba-la-mật. Nhiều lúc thất vọng, ngài thối chí đến độ đã có ý định tự tử. Sau đó ngài gặp được một vị La hán tên là Pindola, vị này giải thích cho Ngài về Tánh không theo Nam tông. Ngài vẫn chưa thoả mãn với lối giải thích này và tìm một hang động trong núi Kukkûtapâdâ, gần thị trấn Râjagrha ngày nay, để tự tham thiền. Ngài thiền định bằng cách quán tưởng Đức Di Lặc. Hai lần Ngài bỏ hang ra đi vì thất vọng, nhưng sau rốt vẫn trở về hang để tiếp tục thiền định. Tổng cộng sau mười hai năm thiền định như thế, ngài vẫn không thấy Phật Di Lặc ứng hiện. Ngài lại bỏ hang và ra đi, trên đường ngài thấy một con chó ghẻ lở khắp thân thể, giòi bọ nhung nhúc và đang hấp hối. Ngài quá thương xót con vật và đang lay hoay tìm cách cứu giúp thì con chó lại biến mất và Phật Di Lặc hiện ra trước mặt. Theo truyền thuyết thì Phật Di Lặc dẫn ngài về cõi Đâu-suất để giảng cho Ngài về Đại thừa và Tánh không. Không biết có thật như thế hay không, nhưng trên thực tế ngài đã để lại cho chúng ta hôm nay một kho tàng trước tác thật đồ sộ và quan trọng.
Tóm lược một đoạn trong tiểu sử của ngài Vô Trước là như thế, nhưng có nhiều sách thêm thắt câu chuyện như sau. Sau mười hai năm thiền định ngài thất vọng và bỏ đi, nhưng khi ra khỏi hang lại gặp một con chó ghẻ lở thật kinh khiếp, các vết thương đầy giòi bọ.  Ngài tìm cách chùi các vết thương cho con chó, nhưng lại thương các con giòi bị chùi mạnh mà chết, Ngài liền thè lưỡi để liếm và đẩy các con giòi ra khỏi các vết thương. Nhưng bất thần con chó biến mất và Đức Di Lặc hiện ra trước mặt ngài. Vô trước liền cất tiếng hỏi Đức Di Lặc : « Thưa Ngài, tại sao con phải chờ đến mười hai năm Ngài mới hiện ra với con ». Đức Di Lặc liền đáp rằng : « Ta vẫn ở bên cạnh con trong mười hai năm liền, nhưng vì sức phát triển của tâm thức con chưa đủ để nhìn thấy ta mà thôi ».
Từ trước đến đây, ngài Vô Trước chỉ thấy Đức Di Lặc qua những hình tướng thiếu hoàn hảo, nhưng con chó ghẻ đã giúp ngài phát lộ lòng Từ bi của mình một cách toàn vẹn hơn. Đức Di Lặc muốn chứng minh điều ấy cho ngài Vô Trước nên bảo ngài hãy cõng mình lên vai và đi về ngôi làng trong thung lũng phía dưới kia : tất cả những người đi ngược chiều đều vô tình chẳng thấy gì lạ cả, chỉ có một bà cụ già chận ngài Vô Trước lại mà hỏi : « Này ông kia, ông làm cái trò gì mà cõng con cho ghẻ kinh tởm trên vai như thế ? ».
 
Từ bi không phải vỏn vẹn là một « đức tính » dù đó là « đức tính từ tâm », cũng không phải là một thứ « xúc cảm », say mê hay đam mê (passion) theo ngôn từ Tây phương. Từ bi cũng không phải là một thứ « tình cảm thụ động » làm ta tê liệt trước khổ đau của chúng sinh, cũng không hẳn là một « khuynh hướng tinh thần » muốn chia bớt và nhận chịu khổ đau của kẻ khác.
Vậy Karunâ hay Từ bi trong Phật giáo là gì ?
Karunâ trong Phật giáo là khả năng nhận thức rằng mọi sinh linh có giác cảm, từ con người cho đến đến các sinh vật khác đều gánh chịu khổ đau, khi nào tất cả các sinh linh ấy chưa được Giác ngộ và Giải thoát, thì Từ bi chính là ước vọng mảnh liệt thúc đẩy ta phải Giải thoát cho tất cả mọi chúng sinh, trong đó có cả ta, ra khỏi khổ đau.
Vì thế Từ bi không có nghĩa đơn giản là « xót thương » kẻ khác một cách thụ động và tiêu cực, mà ngược lại Từ bi là một sức mạnh tích cực đưa ta thẳng vào hành động, trong mục đích loại trừ mọi thể dạng của khổ đau và mọi cội rễ của khổ đau.
Khi Phật Thích-ca Mâu-ni đạt được Giác ngộ, quyết tâm và phát nguyện đầu tiên của Ngài chính là Karunâ, tức là lòng Từ bi, Ngài quyết định thuyết giảng cho chúng ta « Con đường đưa đến chấm dứt khổ đau » (tức là Đạo đế, điều thứ tư trong Tứ diệu đế).
Khía cạnh cao đẹp của Từ bi hay Karunâ cũng là một trong những chân lý cao cả hơn hết của Đạo Pháp : khổ đau không phải là một định mệnh, khổ đau có thể tránh khỏi, ta có thể tự giải thoát được, và tất cả mọi chúng sinh đều có thể thực hiện được sự Giải thoát đó, không phải chỉ riêng có Phật mà thôi (đây là các điều 1,2 và 3 trong Tứ diệu đế : Khổ đế, Tập đếDiệt đế).
Nếu không có Từ bi, biết đâu có thể cũng không có Phật, cũng không có Đạo Pháp và cũng chẳng có Tăng đoàn. Vì sao vậy, vì chính Phật là Từ bi, chính Phật lại giảng cho ta Đạo Pháp của Từ bi và Tăng đoàn đứng ra duy trì Đạo Pháp. Từ bi chính là hiện thân của Tam bảo. Có thể nói Từ bi chính là sự Giác ngộ vậy.
Đến đây, ta có thể nhận thấy Từ bi không phải đơn giản chỉ có sự xót thương và chia xẻ khổ đau với kẻ khác, dù cho đi kèm với bố thí cũng thế. Từ bi trong Đạo Phật cao cả lắm, tích cực lắm và mãnh liệt hơn những gì ta hiểu một cách thông thường. Từ bi là một sức mạnh thiêng liêng, siêu việt đưa đến Trí Tuệ. Nhưng Trí Tuệ là gì ? Trí Tuệ là một công cụ toàn năng giúp ta xóa bỏ Vô minh. Xoá bỏ Vô minh tức là đạt được Giác ngộ. Đạt được Giác ngộ tức là thành Phật.
Đối với các trường phái Phật giáo Nam tông, chẳng hạn như Phật giáo Theravada, Từ bi chứng thực và bảo đảm hành giả là một « đệ tử đích thực » của Phật, một « người con » của Phật, một người biết giữ gìn Giới luật, biết trau dồi một tâm thức tích cực bằng Bốn Phạm Trú (còn gọi là Tứ Vô lượng tâm). Bốn Phạm trú ấy là Từ vô lượng (maitrî) : tâm lành hướng về mọi chúng sinh ; Bi vô lượng (karunâ) : xót thương và cứu giúp tất cả chúng sinh ; Hỷ vô lượng (muditâ) : tâm thức vui mừng và hân hoan khi nhận thấy những đìều lành của chúng sinh ; Xả vô lượng (upeksâ) : buông thả tất cả những gì của chính ta cho chúng sinh (chữ này được giải thích hơi khác trong các kinh sách Tây phương: chữ Upeksâ được dịch ra tiếng Pháp là Equanimité, tức tâm thức trong sáng, bình đẳng không phân biệt và kỳ thị).
Đại Từ, Đại bi, Đại hỷĐại xả là bốn liều thuốc hoá giải chống lại những thái độ sai lầm. Đại từ hoá giải ý nghĩ « sống chết mặc bay », Đại bi hóa giải ý nghĩ « mặc kệ họ cứ đau khổ, chẳng dính líu gì đến ta ». Đại hỷ không cho phép ta cảm thấy « càng thích thú khi kẻ khác gánh chịu sự đau khổ, đáng đời cho họ ». Đại xả đem đến cho ta những xúc cảm trong sáng và bình đẳng, hoá giải ý nghĩ « cái này của ta, của gia đình ta, của bạn bè ta, không tội gì mà buông xả cho người dưng nước lã hay vì kẻ khác ».
Phật giáo Tây tạng thường đưa ra hình ảnh sau đây để giải thích thế nào là lòng Từ bi và thế nào là một cái nhìn đúng đắn. « Nếu có một người cầm gậy đánh ta, ta không kết tội chiếc gậy đã làm cho ta phải đau đớn, ta cũng không kết tội kẻ đã cầm gậy đánh ta,…mà ta phải kết tội sự nóng giận đang chi phối, thúc đẩy và hành hạ người đang cầm gậy đánh ta ». Nếu ta biết kết tội sự nóng giận đang giày vò người cầm gậy, tức là ta phát lộ lòng Từ bi đối với họ. Chính hận thù và giận dữ đang tàn phá họ và làm cho họ khổ đau. Từ bi buộc ta phải giúp họ trút bỏ sự giận dữ và hận thù trong lòng họ và quên đi những đau đớn của ta.
Đấy là một cái nhìn đúng đắn, cái nhìn của một người con Phật. Từ bi là như thế, không phải đơn giản là một thứ tình cảm xót thương.
Nói chung, Từ bi trong các trường phái Đại thừa là thái độ và cái nhìn đã được trình bày trên đây. Đó là phẩm tính cao cả của người Bồ-tát, là trọng tâm của sự Giác ngộ. Từ bi được tượng trưng bởi Phật A-Di-Đà (Phật giáo Nhật bản gọi là Amiba), và bởi Bồ-tát Quán-Thế-Âm, tiếng Phạn là Avalokiteshvara, danh hiệu tiếng Phạn của Ngài là Lokesvara. Phật giáo Tây tạng gọi Quán Thế Âm là Tchenrezi, Phật giáo Trung hoa gọi là Quan Âm (Guanyin), Phật giáo Nhật bản gọi là Kannon. Quan Âm trong Phật giáo Trung hoa, Nhật bản, Việt Nam… được tượng trưng bằng một người phụ nữ. Kể lể như thế để ta có thể hình dung Từ bi trong Phật giáo nói chung, kể cả Nam tông và Bắc tông, có tầm quan trọng như thế nào. Từ bi chẳng những là món ăn tinh thần nuôi dưỡng các chư vị Bồ-tát mà còn là sự biểu lộ của Phật tính, của Giác ngộ nữa.
Trích lược từ QuangDuc (Hoang Phong)

Arya Asanga - The Biography of Arya Asanga

According to the Tibetan tradition, Asanga was born in Purusapura, in India. The capital of Gandhara, of a Brahmin woman who was herself a considerable adept in the teachings of Buddhism and who taught him the "eighteen sciences" which he mastered easily. He became a monk and for five years applied himself diligently, memorizing one hundred thousand verses of dharma each year and correctly understanding their meaning.

He then left the monastery to practice the Arya Maitreya Sadhana in a cave at the foot of a mountain. For three years, not a single good sign appeared, and he became depressed and decided to leave his retreat. Emerging from his cave he noticed a bird's nest by the mountain where the rock had become worn just by the brushing of the bird's wing as it flew back and forth. Realizing his perseverance was weak, he returned to his cave to practice. For three more years he meditated, but again not a single good sign appeared. He became discouraged and left again. This time he saw a rock beside the road that was slowly disintegrating because of the trickle of single drops of water. Inspired by this, he returned and practiced another three years.

When again no signs appeared, he left his retreat a third time. He encountered an old man who was rubbing a piece of iron with a smooth cotton cloth. "I am just finishing this needle," the man said to Asanga. "I have already made those over there" and pointed to small pile of needles lying nearby. Asanga thought, "If such effort is put into a mundane task such as this, my effort so far has been merely a trifle."

He returned and meditated for another three years. Although he had by now meditated for 12 years on Maitreya, he still had no signs of favor. He became extremely despondent and walked away from his cave. After awhile he came across a half-dead dog lying beside the road, infested with maggots, crying out in pain. Asanga thought, "This dog will die if these worms are not removed, but if I try to lift them out with my hand, I will crush them." So using his tongue so as not to hurt them, and cutting off some of his own flesh for them to live in, he bent down to remove them. At that moment the dog vanished and Maitreya appeared, showering cascades of light in all directions.

Asanga burst into tears and cried, "Ah, my sole teacher and refuge, all those years I made so much effort in my practice, exerting myself in a hundred different ways, but I saw nothing. Why has the rain and the might of the ocean come only now when tormented by pain, I am no longer thirsting?" Maitreya replied, "In truth, I was in your presence constantly, yet because of karmic obscuration you were unable to see me. However, your practice has purified your karma and removed your obstacles. Now by the force of your great compassion you are able to meet me. To test my words, put me on you shoulders for others to see and carry me across the city."  

Asanga was overjoyed. Lifting Maitreya onto his shoulders carried him into town, yet no one saw Maitreya. One old woman saw Asanga was carrying a dead dog and that brought her endless good fortune. A faithful servant saw Maitreya's feet and found himself in a state of samadhi which granted him all the siddhis. Asanga himself realized the samadhi called "Continuum of Reality". "What is your desire now?" Maitreya asked him. "To revive the teachings of the Mahayana," Asanga replied. "Well then, hold onto the end of my robe." Asanga did this and together they ascended to the pure land of Tushita where they stayed for fifty years. Here Asanga mastered the teachings of the Mahayana and received the famous Five Texts of Maitreya, each of which opens a different door of samadhi.

Dedicated to actualizing these teachings, Asanga returned to the earth and built a small temple in a forest. At first only a few students came to learn teachings from him, but gradually the fame of his doctrine spread and the Yogacara School was established. He became the abbot of Nalanda and lived to be well over 100, but always had a youthful look, with no gray hair or wrinkles.

He compiled many important Mahayana works including what has come to be known as The Five Texts of Maitreya. These include the Abhisamayalamkara (Ornament of Clear Comprehension), the Mahanaya Sutralankara (Ornament of the Mahayana Sutras), theMadhyanta-vibhanga (Discourse on the Middle between the Extremes), the Dharma-dharmata-vibhaga, and the Uttaratantra (The Peerless Continuum). His Mahayana-samparigraha (Compendium of the Mahayana), Abhidarma-samuccaya (Compendium of Higher Doctrine), and Yogacharabhumi-shastra (Treatise on the Stages of Yoga Practice) are also famous.
The Asanga Institute


The subtle Soul sits everywhere, unstained:
Like to the light of the all-piercing sun
Which is not changed by aught it shines upon
The Soul's light shineth pure in every place;
And they who, by such eye of wisdom, see
How Matter, and what deals with it, divide;
And how the Spirit and the Flesh have strife,
Those wise ones go the way which leads to Life!
 Shri Krishna

Great Compassion Mantra


I see the world thru ur beautiful eyes




photo



 

Homage to our Original Teacher - Shakyamuni Buddha (^.^)

...
Animated Buddha








The Sutra of Hui Neng

The Sutra of Hui Neng- SUTRA SPOKEN BY THE SIXTH PATRIARCH ON THE HIGH SEAT OF "THE TREASURE OF THE LAW".


Wishing: In gladness and in safety,
May all beings be at ease.