... độ người hữu duyên
A. Mở Ðề
Người
đời phần nhiều thường đua chen, dong ruổi theo vật chất, không biết bao
nhiêu cho vừa. Người thiếu thốn tham muốn đã đành, nhưng người dư giả,
tiền bạc lấy thước mà đo, thế mà vẫn còn tham muốn. Ðã tham muốn, thì
không bao giờ thấy mình đầy đủ cả. Ngạn ngữ có câu: "Bể kia dễ lấp, túi
tham khó đầy". Thật đúng như thế, "lòng tham đã không đáy", thì làm sao
đầy được?
Ðể đối trị lòng tham, Phật khuyên chúng ta phải "Thiểu Dục và Tri Túc".
Trong
Khế kinh có nói: "Tri túc chi nhơn, tuy ngọa địa thượng du vi an lạc,
bất tri túc chi nhơn, tuy xứ thiên đường diệt bất xưng ý".
Nghĩa
là: "Người biết đủ, dù nằm trên đất cát vẫn an lạc, trái lại, người
không biết đủ, dù ở cung trời cũng không vừa ý". Vậy muốn được sung
sướng an vui, chúng ta cần phải Thiểu Dục và Tri Túc.
... không sát sinh
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa:
Thiểu Dục là muốn ít; Tri túc là biết đủ.
Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có. Như muốn có
cái nhà ở vừa sạch, vừa che kín nắng mưa; cần đi cho mau, muốn có một
phương tiện giao thông gì cho tiện lợi, chỉ cốt đỡ mỏi chân, đỡ tốn thì
giờ là được, chứ không muốn một chiếc xe hơi lộng lẫy, mấy trăm triệu
đồng, quá sức tài chánh của mình.
Biết đủ, gặp hoàn cảnh nào cũng
đều an phận tùy duyên. Ðối với việc ăn, mặc và ở, tự thấy mình có đủ
dùng rồi, không tham cầu nhiều hơn nữa, mà phải khổ sở về tinh thần.
II. Người Ðời Thường Tham Muốn Những Gì:
Người đời thường bị năm thứ tham muốn sau đây sai khiến:
a) Tham muốn tiền của
b) Tham muốn sắc đẹp
c) Tham muốn danh vọng
d) Tham muốn ăn ngon
đ) Tham muốn ngủ kỹ
Người
tham muốn tiền của, thì tiền kho bạc đống, nhà ngang dãy dọc, đất ruộng
cò bay thẳng cánh, cũng chưa cho là vừa, mà vẫn còn mong muốn được làm
giàu thêm nữa.
Người
tham muốn sắc đẹp, thì suốt đời giong ruổi đi tìm hoa; thấy ai có nhan
sắc là mê mết, tìm cách này, cách khác để gần gũi cho kỳ được. Một khi
đã thỏa mãn, thì lại ruồng bỏ người đẹp này để chạy theo người đẹp khác;
luôn luôn bị vật dục sai khiến, mất hết cả nhân cách.
Người tham
muốn danh vọng, thì suốt đời dong ruổi theo chức cả, quyền cao, tiếng
danh, hay tốt. Họ còn lòn cúi hết chỗ này đến chỗ khác, để mong được cái
địa vị cao sang. Họ lao tâm, khổ trí, tìm mọi cách để nắm giữ cho được
cái hư danh.
Người tham muốn ăn ngon, thì suốt đời lân la bên
cạnh những cao lương mỹ vị, quanh quẩn bên những tiệc bàn, tìm khoái
khẩu trong những rượu ngon, vị lạ. Thế giới của họ thu hẹp lại trong
những món ăn và những người bạn rượu.
Người tham muốn ngủ nghỉ,
thì quá nửa đời mình lẩn quẩn trên chiếc giường; ăn xong lại nghĩ chuyện
đi nằm, nằm là ngủ, ngủ xong lại muốn ngủ nữa, mất cả tự chủ của mình.
Khi đã tham muốn những thứ ấy, thì cuộc đời của những kẻ ham muốn kia,
chỉ còn thu hẹp lại trong sự ham muốn của mình, và làm tôi mọi cho vật
dục mỗi ngày mỗi thêm chặt chẽ.
Xét cho cùng thì những sự tham
muốn trên, ngoài sự tham muốn danh vọng là do kiêu căng ngã mạn, còn các
thứ tham vọng khác, đều do ngũ dục là động lực chính cả. Ngũ dục là: sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, và xúc dục.
* * Sắc dục là gì?
Là
nhãn căn đối với sắc trần, sanh tâm tham muốn. Trong thì "chánh báo" là
thân phần của nam nhơn hay nữ nhơn: mày tằm, mắt phượng, môi đỏ, má
hồng... Ngoài thì "y báo" là vật dụng của thế gian: ngọc, ngà, châu,
báu, vật quý đồ xưa, sắc màu lộng lẫy... Những món ấy, đại đa số người
vừa trông thấy liền sanh tâm tham ái.
* * Thanh dục là gì?
Là
tai nghe tiếng hay, tâm sanh say đắm; như tiếng ca, giọng hát, khúc lý
câu tình, âm điệu du dương, khêu gợi tâm dục của người, sanh tâm đắm
nhiễm.
* * Hương dục là gì?
Là lỗ mũi khi
đối với hương trần sanh tâm tham muốn; như dầu thơm ngào ngạt, phấn sáp
nồng nàn v.v... Những món hương trần ấy, khiến cho người ngửi đến thì
sanh tâm ưa thích đắm chìm, mơ tưởng vẫn vơ.
* * Vị dục là gì?
Là khi lưỡi đối với mùi vị, sanh tâm tham đắm, như các mùi vị thơm tho,
ngọt bùi, chua chát, mặn lạt, mỡ thịt, cá tôm, chả gỏi nem bì, những đồ
cao lương mỹ vị..
Vẫn biết nhân loại đối với sự ăn uống phải cần
dùng nhiều món để nuôi sống mà làm việc. Thế nên cả nhân loại ăn chẳng
công nhận nó là điều cần thiết nhất, nếu ăn uống kém thiếu, thì thân thể
phải ốm gầy. Nhưng ta nên xem sự ăn uống như là uống thuốc, để chữa
bịnh đói khát mà thôi, đừng quá tham món cao lương mỹ vị.
Phật
nói: "Chúng sanh sở dĩ đi không cách đất, không khỏi cỏ cây, ra vào
không rời khỏi không khí, là bởi ăn những món do đất sanh ra, nên thân
thể rất nặng nề".
* * Xúc dục là gì?
Là
thân thể khi giao thiệp với xúc trần, sanh tâm tham muốn. Bố vải thô sơ,
mặc vào mình biết nhám; lụa là, gấm nhiểu suông, vào mình biết trơn
láng, gỗ chạm vào mình biết cứng, bông đụng vào mình biết mềm v.v...
Những vật gì mềm mại thì sanh tâm ưa thích, những vật gì cứng nhám thì
sanh lòng ghét bỏ.
III. Tai Hại Của Lòng Tham Quá Ðộ:
Những
sự tham muốn quá độ, làm cho lòng người xao xuyến, mất hết cả tự chủ,
và chỉ còn là nô lệ cho những thèm muốn của mình mà thôi. Một khi đã bị
lòng tham dục điều khiển, thì con người gây không biết bao nhiêu tội
lỗi, dám làm những chuyện hung ác mà chẳng gớm tay.
Lại chính vì
lòng tham muốn không ngằn mé, mà mình không tự nhận biết, nên đến khi
muốn mà không được, thì đổ lỗi cho người, nhân đó sinh ra cạnh tranh,
xung đột, làm cho nhân loại chịu lắm điều tàn hại.
Lòng tham muốn quá độ, làm cho con người tối mắt trước những sự phải, trái, thúc đẩy người đời vào đường tội lỗi.
Chẳng
hạn một kẻ không có năng lực, đạo đức mà muốn được giàu có lớn và quyền
thế to, thì có thể dùng những mưu mô gian xảo, đen tối, dã man để đạt ý
muốn của mình. Hoặc giả, cũng vì muốn được như ý bà vợ yêu quí, mà có
lắm ông chồng bị bắt buộc làm những việc trái với lương tâm cho đến tan
thân mất mạng.
Tóm lại, ngũ dục làm hại cho loài người không thể
kể xiết: Vì ngũ dục mà sanh ra lo buồn giận dữ; vì ngũ dục mà sanh ra
dối trá, gian tham; vì ngũ dục mà sanh ra cạnh tranh xâu xé, nhân loại
đưa nhau vào rừng tên, mưa đạn.
Trong hiện tại lòng tham muốn quá
độ, sự chạy đuổi theo ngũ dục đã làm tổn hại chẳng những cho mình và
cho người, mà trong tương lai, chúng lại còn đưa con người vào chốn tam
đồ ác đạo, nhất là vào vòng ngạ quỷ, để phải chịu thiếu thốn cả hai
phương diện vật chất lẫn tinh thần. Ðó là kết quả thảm khốc của người
quá tham, không biết "Thiểu dục" và "Tri túc".
IV. Phương Pháp Ðối Trị Lòng Tham Muốn Quá Ðộ: "Thiểu Dục Và Tri Túc"
Túi
tham đã không đáy, thì càng tham lại thấy càng thiếu, càng khổ. Phật
dạy: "Càng tham muốn, càng khổ sở". Chúng ta đừng lầm tưởng rằng: một
khi lòng tham muốn được thỏa mãn, là hết tham muốn. Hể còn củi thì lửa
còn cháy.
Tham muốn được tọai nguyện thì tham muốn lại càng to
lên. Tục ngữ thường nói: "Ðược voi đòi tiên" là thế. Người mà lửa tham
vọng mong cầu nung nấu trong lòng, bao giờ cũng thấy mình còn thiếu
thốn. Không thấy thiếu món nầy, lại thấy thiếu món khác, rồi thèm khát
mãi, không lúc nào được tọai chí. Mà không toại chí là còn đau khổ.
Ðể
đối trị lòng tham vô độ, đạo Phật cũng như đạo Nho đều dạy chúng ta
phải "Tri túc" tức biết đủ. Có bao nhiêu ta hưởng bấy nhiêu, tự cho mình
không còn thiếu gì nữa, đừng nhìn lên những kẻ giàu có sang trọng hơn
mình, thế là "biết đủ". Có bao nhiêu ta hưởng bấy nhiêu, tự cho mình
không còn thiếu gì nữa, đừng nhìn lên những kẻ giàu có sang trọng hơn
mình, thế là "biết đủ".
Trong kinh Di Giáo, Phật dạy: "Nầy các Tỳ kheo! Nếu các ông muốn thoát khỏi sự khổ não, nên suy nghiệm hai chữ 'Tri túc'".
Hễ
biết đủ thì ở cảnh nào cũng yên vui. Người không biết đủ, tuy giàu mà
nghèo; người biết đủ tuy nghèo mà giàu. Người không biết đủ thường bị
năm thứ ham muốn kéo dắt, làm người biết đủ thương hại. Một người trong
tay thâu tóm tất cả của cải trong thế gian, với người nghèo mà không
tham muốn, hai người đều giàu như nhau.
Chúng ta hãy chiêm
nghiệm những lời dạy đầy ý nghĩa ấy. Làm chủ đời ta, chính là lòng ta.
Giàu nghèo sang hèn chỉ là vấn đề phụ thuộc. Nếu ta kiềm chế được dục
vọng, tham muốn là ta giàu sang; nếu ta không kiềm chế được dục vọng
tham muốn là ta nghèo hèn.
V. Lợi Ích Của Hạnh Thiểu Dục Và Tri Túc:
Lòng
tham muốn làm cho ta khổ bao nhiêu, thì Thiểu dục và Tri túc lại làm
cho ta sung sướng bấy nhiêu. Ðó là lẽ đương nhiên. Nhờ "ít tham dục",
nên con ma dục vọng không làm sao xui khiến được mình; nhờ "biết đủ",
nên con quỷ tham lam chẳng có quyền hành sai bảo mình nữa.
Một
khi con người không còn làm nô lệ cho vật chất đê hèn nữa, thì lòng
người bắt đầu tự do giải thoát. Con người lúc ấy mới xứng danh là con
người. Mới có đủ nhân cách và không hổ thẹn với địa vị làm anh cả muôn
loài. Chỉ khi ấy con người mới có thể tự cho là mình có hạnh phúc được;
và dù cho thường ngày vẫn ăn cơm hẩm canh rau, quanh năm cứ quần bô, áo
vải, cũng vẫn thấy trong lòng thơ thới, an vui, sung sướng.
Từ
xưa đến nay, không có một vị giáo chủ nào, hiền triết nào xứng đáng với
danh nghĩa ấy mà lại không khinh thường vật chất, mà lại chạy theo danh
vọng tiền của, ăn sung, mặc sướng cả. Hơn nữa, nhờ Thiểu dục và Tri túc
mà gia đình, xã hội được an vui, hòa bình, không còn ai giành giật của
cải, danh vọng, miếng ngon, vật lạ của ai nữa. Các lợi ích của Thiểu dục
và Tri túc thật không sao kể xiết được.
... thiểu dục & tri túc
Giải Ðáp Những Thắc Mắc Về Thiểu Dục Và Tri Túc
Có người hỏi:
*--
Con người muốn tiến bộ, cần phải nỗ lực phấn đấu, cạnh tranh trong tất
cả mọi trường hợp. Ðạo Phật lại dạy phải Thiểu dục và Tri túc. Như thế
là chủ trương làm cho nhân loại thối hóa chăng?
Ðáp:
*--
Không! Ðạo Phật dạy "Thiểu dục" và "Tri túc" cốt yếu ngăn ngừa con
đường trụy lạc, chận đứng lòng tham lam độc ác không bờ bến của chúng
sanh, đang sống trong cõi đời vật dục, chứ không phải chủ trương ngăn
chận sự tiến triển của con người trên đường lợi người, lợi vật, ích
nước, ích dân.
Nhận thấy tai hại lớn lao của bịnh tham lam, nên
đức Phật đưa ra phương thuốc rất công hiệu là "muốn ít" và "biết đủ" để
điều trị căn bệnh ấy cho tận gốc. Phương thuốc nầy sẽ làm yếu dần tâm
tham lam, nên các mối dục vọng, tội ác dần dần tiêu diệt, chỉ còn lại
tấm lòng từ bi rộng rãi bao la mà thôi.
Một khi con người hết
chạy theo dục vọng, hết đuổi bắt những hạnh phúc vật chất tạm bợ, giả
trá cũng không đào bớt thêm đau khổ của người khác, để tìm hạnh phúc cho
mình nữa, thì lúc ấy, hạnh phúc chân thật liền đến với họ.
Như
thế, nghĩa là hạnh "Thiểu dục" và "Tri túc" bắt đầu hãm bớt tốc lực của
lòng dục vọng tham lam, kế đó chận đứng nó lại, sau hết buộc nó xoay
chiều, đổi hướng, tinh tiến mãi trên con đường lành.
Vậy thì
hạnh "muốn ít" và "biết đủ " chẳng những không đưa con người vào con
đường thối hóa, mà lại giúp cho sự tiến hóa của nhân loại. Vả lại, ngày
nay nhân loại đang chứng kiến một sự mất quân bình nguy hiểm giữa sự
tiến hóa mau lẹ của vật chất và sự chậm tiến của tinh thần. Sự mất tinh
thần ấy có thể đưa nhân loại đến hố diệt vong. Vậy cần phải quân bình sự
tiến hóa vật chất và tinh thần. Muốn thế, chẳng có phương pháp nào khác
hơn là tuân theo hạnh "Thiểu dục" và "Tri túc". Con người nếu biết coi
thường vật chất một ít, thì mới tiến hóa thêm về tinh thần.
Sở
dĩ ngày nay trên thế giới, đứng về phương diện vật chất, khoa học, con
người có tiến triển rất nhiều, rất nhanh; còn về phương diện tinh thần,
đạo đức, con người tiến rất chậm, vì ít có ai quan tâm lưu ý đến nó, mà
chỉ chạy theo tham muốn dục vọng.
Hễ vật chất quá
tiến, thì tinh thần phải lùi, vật chất càng cao thì lòng tham càng
nặng, càng sâu, càng lớn, không biết lúc nào là cùng. Tai họa chiến
tranh ngày nay, gieo rắc khắp nơi trên thế giới, cũng do lòng tham không
đáy của con người "bất tri túc" vậy.
Vậy
Thiểu dục và Tri túc là hai phương thuốc thần diệu cho căn bệnh trầm
trọng của thế giới ngày nay, không ai có thể chối cãi được.
C. Kết Luận
Kẻ
ngoài đời và người trong đạo, muốn được hạnh phúc chân thật, thì nên tu
hạnh "Thiểu dục" và "Tri túc ". Vì thật sự, những người không quá đòi
hỏi về vật chất, thì chẳng hề so sánh với bề trên; do đó, không thấy
mình thiếu thốn về vật chất, nên ít khổ.
Hơn nữa, họ chỉ so sánh
với kẻ dưới, thấy mình khá giả, đầy đủ hơn, nên dễ mãn nguyện. Muốn
tránh khỏi tai nạn trong gia đình và xã hội, mỗi người trên thế gian
nầy, đều phải giữ phận thủ thường, đừng vượt quá khả năng của mình.
Trên
thế giới năm châu hiện nay, muốn có hòa bình để mà hưởng lạc thú hòa
bình vĩnh viễn, thì cũng không ngoài cái hạnh "Thiểu dục" và "Tri túc"
mà được.
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Được
cả thế giới ca ngợi là thiên tài kỹ thuật, nhà phát minh vĩ đại, một
doanh nhân tài ba...etc. Ẩn dưới những bề nổi đó, Steve Jobs là một Phật
tử, thực hành thiền định từ thuở thanh niên. Là người sở hữu tài sản rất lớn, nhưng ông luôn sống đơn giản, thiểu dục tri túc, ăn chay. Steve Jobs từng bộc bạch: “Tâm vắng lặng là chìa khóa của mọi sáng tạo”. Ngày Steve Jobs tạm biệt thế giới này, cả thế giới thương tiếc ông, dành những lời tốt đẹp nhất để nói về Steve Jobs.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét